Vai trò của trụ
trì được khẳng định là trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng; nghĩa là Thầy trụ
trì không giữ ngôi chùa vật chất. Phật không dạy chúng xuất gia làm việc ấy,
nhưng chính yếu là giữ ngôi chùa tâm linh. Giữ gìn ngôi chùa tâm linh là các
Thầy phải ở trong nhà của Đức Như Lai, được kinh Pháp Hoa nói rõ là tâm từ bi.
![]() |
HT. Thích Trí Quảng |
Sau khi Đức Phật thành
đạo ở Bồ đề đạo tràng, Ngài đến Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như và
cả năm vị này đều đắc Thánh quả A la hán. Các thanh niên dòng Da Xá trông thấy
tướng hảo giải thoát của các vị Thánh này, nên đã phát tâm xuất gia. Cha mẹ và
vợ con của các thanh niên Da Xá tìm đến Lộc Uyển thấy hào quang của Đức Phật và
đại chúng trang nghiêm cũng phát tâm quy y Tam bảo. Từ đó, Phật giáo có mặt ở
Ấn Độ và trải qua suốt thời gian dài hơn 2500 năm, Phật giáo đã được truyền bá
từ nước này sang nước khác, có lúc thạnh, lúc suy. Tìm hiểu nguyên nhân nào làm
Phật pháp hưng thạnh, hay suy đồi, để chúng ta giữ gìn và phát triển được đạo
pháp.
Bước đầu, không nghe Phật nói đến
trụ trì, nhưng chính yếu là Ngài thường đề cập đến hoằng pháp, theo đó mỗi
người đi một hướng, để mang kiến thức và sở đắc tu chứng vào đời làm lợi ích
cho chư Thiên và loài người. Đó là sách tấn của Phật khi lập giáo khai tông.
Nhưng về sau, có tịnh xá, có người cai quản chùa, người ta đặt nặng việc quản
lý cơ sở vật chất thì mới nảy sanh sự hiện hữu của trụ trì.
Và đặc biệt vai trò của trụ trì
được khẳng định là trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng; nghĩa là Thầy trụ trì
không giữ ngôi chùa vật chất. Phật không dạy chúng xuất gia làm việc ấy, nhưng
chính yếu là giữ ngôi chùa tâm linh. Giữ gìn ngôi chùa tâm linh là các Thầy
phải ở trong nhà của Đức Như Lai, được kinh Pháp Hoa nói rõ là tâm từ bi.
Các Thầy giữ ngôi chùa vật chất mà
rời tâm từ bi của Phật là đã ra khỏi sự an ổn của Phật pháp và rơi vào thế tục,
bị hệ lụy bởi vật chất, thì không bao giờ thấy Phật. Mất tâm từ bi, nhưng giữ
chùa vật chất, khó tránh khỏi nhiều mối tranh chấp, rất nguy hiểm. Đầu tiên là
tranh chấp với thế gian, Thầy trụ trì sẽ mất đạo phong, vì đã rời nhà Như Lai,
tức người tu mà cũng buồn phiền, tranh cãi, hơn thua, tranh chấp đất đai, nhà
cửa, v.v...
![]() |
Duy Ma Cật |
Chủ yếu là các Thầy ở trong nhà Như
Lai, ra ngoài, tức đánh mất tâm từ bi, thì ta còn chùa, còn người tu, nhưng
thực chất không làm lợi ích cho người; nói cách khác, là không còn Phật pháp.
Vì vậy, Đức Phật thành đạo là Ngài
thấy được các pháp theo nhân duyên vận hành trong vũ trụ, thấy mối tương quan
tương duyên giữa con người với xã hội. Và thấy đúng như vậy rồi, Ngài khéo vận
dụng nhân duyên này mà đi truyền bá chánh pháp. Bước theo dấu chân Phật, tôi
khuyên những người xuất gia không nên nghĩ đến mua đất, cất chùa; nhưng phải
nghĩ làm sao thấy đạo, đắc đạo, để chúng ta có đạo thì bấy giờ sẽ có chư Thiên,
có Hộ pháp, có mọi người đến với chúng ta, là chùa được xây dựng.
Thật vậy, chùa Nam Hoa ở Trung Quốc
khi chưa thành hình, đã có một vị phạm Tăng đến nơi đó nói rằng 500 năm sau, sẽ
có một vị cao Tăng đến đây biến vùng này thành trung tâm Phật giáo. Theo tôi,
vị phạm Tăng này đã thấy ngôi chùa tâm linh khi ẩn tu và Ngài đã bồi dưỡng, un
đúc để sau này thành ngôi chùa vật chất. Chùa đã có trong tâm Ngài, vì trong
tâm Ngài có Phật, có pháp, nên Ngài đem gieo trồng Phật pháp ở đây là gieo
trồng Phật pháp trong tâm quần chúng.
Ý thức như vậy, chúng ta nỗ lực tu
hành, thấy đạo, thấy nhân duyên của quần chúng với đạo, nên gieo Phật pháp vào
lòng họ. Lòng quần chúng có Phật pháp và kết hợp với sự hỗ trợ Phật pháp của
chính quyền, chắc chắn chùa sẽ thành.
Ở Thiên Thai tông, có Ngài Trí Giả
đã thể nghiệm điều này một cách sâu sắc. Ngài đến Ngọc Tuyền ngồi trên phiến
đá, thấy nơi đó có chùa và Ngài nỗ lực tu để ngôi chùa này hiện hữu, chứ Ngài
không xây chùa. Ngài phát huy đạo đức đến độ cao có sức cảm hóa được người và
phát huy trí tuệ khiến người kính trọng Ngài là tiểu Thích Ca. Ngài tu ở nơi
vắng vẻ, nhưng lực cảm hóa của Ngài đến người tiều phu, cho đến các thôn nữ. Họ
đã dâng cúng thức ăn cho Ngài. Và khi có người tìm đến cúng dường, Ngài thuyết
pháp là đem Phật pháp để vào lòng các lão tiều phu, các thôn nữ. Những người
này trở về khuyến hóa gia đình, bạn bè. Như vậy, người đến nghe Ngài thuyết
pháp càng ngày càng đông, cho đến các quan địa phương và những người ở các vùng
lân cận cũng đến nghe Ngài giảng dạy. Tùy Dạng Đế nghe tiếng đồn về đạo đức và
trí tuệ của Ngài, nên đã đích thân tìm đến đảnh lễ Ngài Trí Giả và xin thọ Bồ
tát giới tại gia và đem binh mã đến phá núi xây chùa Ngọc Tuyền. Lịch sử ghi
rằng, người dân thấy Ngài tu ở phiến đá ngoài trời lạnh giá, cho nên đã khởi
lòng kính trọng và thương quý Ngài, mới lấy khăn choàng che trên đầu của Ngài;
về sau này cái khăn choàng đã biến thành chiếc mũ Quan Âm là phát xuất từ đời
Tùy, Trung Quốc. Các vị Tổ mà chúng ta thờ trong những ngôi chùa cổ cũng có
miếng vải che trên đầu cũng khởi nguồn từ đây.
Từ ngôi chùa tâm linh xây dựng bằng
niềm tin của mọi người, tức người kính trọng Ngài và Phật pháp, nên ngôi chùa
tâm linh hình thành thì ngôi chùa vật chất được dựng lên bằng cách quần chúng
cúng đất, cúng tiền, đóng góp công sức. Vì vậy, chùa vật chất có ra từ chùa tâm
linh, Phật pháp có ra nhờ Đức Phật thâm nhập Thiền định ở Bồ đề đạo tràng và
Ngài tu chứng, thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác. Sau đó, Phật pháp
nhờ các vị Thánh Tăng phát triển, nhờ các vị cao Tăng tu hành, truyền bá từ Ấn
Độ, sang Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, v.v…
Các nhà truyền giáo không mang theo
tiền của và vật tư, nhưng đến đâu, các Ngài chủ yếu xây dựng ngôi chùa tâm linh
trong lòng người trước, sau đó, chùa vật chất mới được xây dựng, được bảo vệ;
cho nên không có tranh chấp. Nhưng ngày nay, có nhiều điều tệ hại. Một số Thầy
nói rằng vì đất có giá, nên người ta đã tìm cách lấn chùa, chiếm chùa. Thử nghĩ
xem chùa này ai xây, ai lấy. Lúc trước, quần chúng xây, nay quần chúng lấy; lúc
trước ông bà tổ tiên cúng, nay con cháu lấy. Ở một mặt nào đó, thấy như vậy;
nhưng nhìn xa thì thấy khác. Vì đạo đức và trí tuệ của chúng ta kém, vì nhân
duyên hết, nên không giữ được chùa.
Phật pháp thạnh hay suy
tùy theo nhân duyên. Ngày xưa, các bậc Thầy Tổ của chúng ta được người kính
trọng, cúng dường xây chùa; vì đức độ của các Ngài lớn, vì nhân duyên của các
Ngài và dân chúng địa phương có, cho nên họ hết lòng ủng hộ chùa. Nhưng khi ta
kế nhiệm làm trụ trì, đức độ và trí tuệ kém, khiến người không kính trọng, thấy
ta ở đây không hợp lý, họ muốn đẩy đi, mà không được thì bằng mọi cách họ phá
rối.
Tu hành phải thấy sâu xa. Nếu ta
không đủ tài đức, hay hết duyên hành đạo nơi đây, ta tìm người có tài đức, có
duyên đến giáo hóa thay ta. Đừng nghĩ rằng giao chùa lớn cho người khác là
uổng; không giao làm cho Phật pháp suy hoại. Đừng để bị vướng mắc vào cơ sở vật
chất, không thể tu, không thể phát huy đạo hạnh và tâm linh mình.
![]() |
Tượng Bồ Tát Di Lặc |
Vì vậy, chúng ta thấy ngôi chùa vật
chất bên ngoài mà biết được tâm linh của trụ trì lớn hay nhỏ. Nếu tâm linh
sáng, thì chùa vật chất sáng theo; tâm linh mờ tối thì vật chất cũng mờ theo.
Riêng tôi cố gắng xây dựng ngôi chùa tâm linh cho chính mình, tức vững tin nơi
Phật pháp, hạ quyết tâm tu cho đạt được kết quả tốt đẹp và đem kết quả này gieo
vào lòng quần chúng rộng bao nhiêu thì tâm linh phát triển bấy nhiêu. Kinh Pháp
Hoa dạy về thường trụ Tam bảo, nhưng thường trụ Tam bảo này ở trong tâm chúng
sinh. Bao giờ chúng sinh còn nghĩ đến Tam bảo thì Tam bảo thường trụ. Chúng
sinh không nghĩ đến Tam bảo thì Tam bảo mất. Chúng sinh còn nghĩ đến Phật thì Phật
ra đời trong tâm chúng sinh.
Hoằng dương Phật pháp là đem Phật
pháp vào lòng chúng sinh, chắc chắn Phật pháp hưng thạnh. Ngày nay, Phật giáo
đang phát triển trên đà cao, nhiệm vụ của chúng ta là cảm hóa quần chúng hướng
về Phật, quy ngưỡng Tam bảo, sống theo tinh thần Phật dạy, thì Phật pháp hưng
thạnh.
Phật giáo có điều rất đặc biệt, Đức
Phật hiện hữu trên cuộc đời này, Ngài không muốn chúng sinh làm nô lệ cho mình,
hay biến chúng sinh thành công cụ của mình. Mục tiêu chính của Phật là giáo hóa
chúng sinh để họ có được cuộc sống hạnh phúc an lạc. Vì vậy, mọi người hướng về
Phật. Trên bước đường độ sanh, Ngài đi đến nước nào cũng làm lợi ích cho nơi
đó, không làm tổn hại bất cứ người nào, loài nào. Chính vì Ngài luôn mang lại
sự lợi ích an lạc cho số đông mà các vua chúa vùng ngũ hà thời bấy giờ đều
thỉnh Phật về thuyết pháp, để cho quần chúng nghe Phật sẽ sống đạo đức, sống an
vui hơn. Vua chúa không dám động đến Phật, họ có thực lòng kính trọng Phật hay
không, chúng ta không biết; nhưng chắc chắn họ phải e ngại lực lượng quần chúng
hết lòng theo Phật, kính Phật.
Thiết nghĩ ngay cả khi Phật Niết
bàn, Ngài cũng làm lợi ích cho nhiều người bằng cách chọn thành Câu Thi Na
thuộc một nước nhỏ nhất trong vùng ngũ hà để Niết bàn, vì Ngài thương dân chúng
nghèo khổ nơi này. Thật vậy, khi Phật Niết bàn thì các vua chúa và dân chúng
trong vùng ngũ hà đã đến đó đảnh lễ kim thân Phật, tham dự lễ trà tỳ và chia Xá
lợi Phật. Tất nhiên là việc xây dựng nhà cửa, làm đường xá, nói chung là hạ
tầng cơ sở nhờ đó mà được thành hình khang trang để đáp ứng chỗ ăn ở cho vua
chúa và tín đồ thời bấy giờ, tạo thành cuộc sống sung túc cho cư dân vùng đó.
Và cho đến ngày nay, Câu Thi Na được coi như một trong những Thánh tích của
Phật giáo, cũng thu hút nhiều đệ tử Phật khắp thế giới hành hương đến đó. Trên
thế gian này, không có một vị Thánh nào được như Phật, đương thời vua chúa kính
trọng Phật và khi rời bỏ huyễn thân thì Xá lợi Phật được tôn thờ ở khắp mọi
nơi. Tu theo Phật, Tăng Ni nên suy nghĩ đến đâu là phải mang an vui, hạnh phúc
cho người. Chỗ tranh chấp, không bao giờ chúng ta đến.
Xây dựng ngôi chùa tâm linh, đặt
Phật pháp vào lòng quần chúng, họ kính tín Tam bảo, chắc chắn ngôi chùa vật
chất sẽ xuất hiện. Tâm linh nhỏ thì chùa vật chất nhỏ. Tâm linh rộng thì chùa
vật chất rộng. Bằng chứng là trước kia giảng đường của chùa Kim Cang này nhỏ,
nhưng Phật tử đến tu đông, không đủ chỗ sinh hoạt; cho nên họ đã tự đóng
góp xây dựng thành giảng đường khang trang.
Một Thầy trụ trì mà tâm hẹp, nghĩ
rằng chùa của mình, nên gìn giữ cho mình, thì rơi vô tình trạng nhứt Tăng nhứt
tự. Tâm trụ trì đóng kín, thì không ai tới. Nếu tâm trụ trì được mở rộng thêm
một chút, sẽ có Phật tử đến công quả, có một bà già đến quét lá, một người đến
nấu cơm, người đến trồng hoa, lau bàn Phật, v.v…
Các Thầy trụ trì phải có tâm bao
dung như Bồ tát Di Lặc, vì Ngài rất dễ thương, ai cũng tới với Ngài được. Thực
tế cho thấy những Thầy có tâm bao dung thường có đông đệ tử và họ sẽ trở thành
đệ tử xuất gia. Chùa này có tấm lòng bao dung của Thượng tọa Tắc Ngộ, nên chúng
tại gia và xuất gia đông. Và Thầy Tắc Ngộ bao dung, muốn mở khóa tu học cho
Tăng Ni và vì nơi đây đã hiện hữu ngôi chùa tâm linh, nên nhiều Tăng Ni tập
trung về đây. Đương nhiên không phải tất cả mọi nơi đều tổ chức được như chùa
Kim Cang; nhưng chúng ta cũng làm được chừng mực nào đó. Tuy nhiên, quan trọng
là phải có tấm lòng bao dung khiến cho người cảm mến mà tự nguyện đóng góp, xây
dựng, bảo vệ chùa, thì Thầy trụ trì không phải cực khổ gì cả, chỉ cần giữ tâm
từ bi và tâm bao dung để cảm hóa người.
Đức Phật Thích Ca quyền ký cho Bồ
tát Di Lặc thay thế Ngài hóa độ chúng sinh Ta bà, mà chính yếu là thay thế tấm
lòng bao dung. Các Thầy trụ trì nên mở lòng bao dung như Di Lặc, mới đem Phật
pháp để vào lòng người được và làm lợi ích cho chúng hữu tình.
Trụ trì thì theo mô hình Di Lặc.
Thuyết pháp thì phải như Bồ tát Văn Thù, hay như Duy Ma Cật. Vì Duy Ma
không đóng vai Thầy tu, không có hình thức ràng buộc, nên Duy Ma ở đâu cũng
được, đem Phật pháp đến đâu cũng được. Đối với công nhân, Duy Ma là công nhân;
với người trí thức, Duy Ma là người trí thức, với người kinh doanh, Duy Ma là
người kinh doanh. Kinh Duy Ma nói rằng Ngài tới thành Tỳ Da Ly như một người
bình thường, nhưng hễ ai có buồn phiền, đau khổ, thắc mắc, khó khăn, thì Duy Ma
giải quyết cho họ một cách tốt đẹp. Ngài giải quyết được tất cả mọi việc, nhưng
chưa bao giờ Ngài nói Phật pháp; vì Phật pháp Đại thừa là làm lợi ích, an vui
cho số đông. Vì vậy, Phật pháp không hạn cuộc vào kinh Di Đà, hay kinh Phổ Môn.
Nếu mang hình thức Thầy tu Phật giáo mà truyền bá Phật pháp ở nước theo tôn
giáo khác một cách cực đoan, chắc chắn khó bảo toàn được mạng sống, nói chi đến
giảng dạy Phật pháp. Còn đến với tư cách Duy Ma, nghĩa là cho lời khuyên nào
cũng đúng, làm theo Ngài thì được lợi ích, tất nhiên được chấp nhận.
Và khi mọi người quý
trọng Duy Ma rồi, thì Ngài giả bệnh, quả là một phương tiện rất dễ thương của
Bồ tát! Những người đã từng được giúp đỡ, mang ơn Ngài, nên nghe nói Ngài bệnh
mới đến thăm. Nhân đây, Ngài thuyết pháp. Người nghe xong thì Phật pháp mới hiện,
nghĩa là có Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đến thăm bệnh Duy Ma tiêu biểu cho nhập bất
nhị pháp môn, hay nhứt thừa, chơn đế và tục đế kết hợp là một. Văn Thù Bồ tát
tiêu biểu cho chơn đế và Duy Ma tiêu biểu cho tục đế. Hai đế này là một.
Duy Ma nói, thì Văn Thù khẳng định
rằng Duy Ma nói đúng. Đến phiên Văn Thù nói thì Duy Ma cũng khen là đúng. Chúng
ta phải suy nghĩ ý này, làm sao người tu nói mà người thế gian phải nghĩ là
đúng, không tranh cãi. Các Thầy cố tranh cãi thế này thế nọ là sai, vì chân lý
là một, không phải hai, nhị đế dung thông. Vì vậy, thuyết pháp theo Văn Thù Bồ
tát vào cuộc đời không làm chống trái cuộc đời, nên Duy Ma nói ở tục đế, Văn
Thù ở chơn đế cũng cho đó là đúng.
Theo tôi, ai nói cũng đúng, chánh
khách nói thì phải như thế. Người buôn bán nói thì phải như thế. Thầy tu nói
thì có ngôn ngữ riêng cũng đúng. Ai cũng có suy nghĩ riêng và ngôn ngữ riêng
tương ưng với thành phần xã hội của họ; hiểu như vậy, chúng ta chấp nhận tất cả
các quan niệm khác nhau một cách dễ dàng và hài hòa trong cuộc sống, không
chống đối. Còn nghĩ tôi theo Nam tông, hay theo Khất sĩ, hoặc theo cổ truyền,
Bắc tông, v.v… mà chống phá nhau, làm sao Phật pháp tồn tại.
Chúng ta nhìn về cuộc đời, thấy tất
cả mọi người đều đúng, xã hội cũng đúng, cái gì tồn tại thì phải đúng; không
đúng thì không tồn tại được. Nhân duyên như thế, nên trong kinh Pháp Hoa, Phật
nói đó là pháp nhĩ như thị, không thể khác. Ví dụ một người nào đó sống rất
hung ác, nhưng họ vẫn tồn tại, vì phước của họ chưa hết, nên quả báo xấu chưa
xảy đến với họ. Hoặc người tốt, giỏi, nhưng chưa làm được, vì thời của họ chưa
tới. Ta khuyên họ nên chuẩn bị đầy đủ, vì cơ hội chỉ đến cho người có chuẩn bị.
Tất cả mọi việc đều đúng là chân
lý, tức Phật pháp phải mang tính hài hòa được với xã hội, với tôn giáo khác; nói
chi trong nội bộ Phật giáo chúng ta. Tu trong cùng một chùa, hay cùng một màu
áo, cùng một lý tưởng sống theo Phật, nhưng không hài hòa được với nhau, thì dù
có trụ trì, có chùa cao Phật lớn, nhưng vẫn cách xa Phật vạn dặm; đó là điều mà
tôi muốn nhắc nhở Tăng Ni.
Chính yếu của việc trụ trì là trụ
pháp và giữ gìn Như Lai tạng tâm của chúng ta, nghĩa là giữ tâm chúng ta luôn
bình ổn, sáng suốt để nhìn cuộc đời một cách đúng đắn mà hành đạo. Những việc
chưa đáng nói mà nói là tự chuốc họa vào thân, ham nói dễ dẫn đến tù đày, chết
chóc. Những việc đúng lúc nên làm mà bỏ qua là đánh mất cơ hội tốt.
Tăng Ni phải giữ được Như Lai tạng
tâm. Như Lai tạng tâm là gì? Trên bước đường tu, chúng ta cần nhận được yếu chỉ
của hai con đường Duyên khởi thì tu hành mới đạt kết quả tốt. Đức Phật tu thành
Phật là nhờ phát hiện lý Duyên khởi và Ngài dạy rằng ai thấy lý nhân duyên là
thấy Phật pháp và thấy Phật pháp thì trở về Như Lai tạng tâm là trì Như Lai
tạng.
Duyên khởi có hai là A lại da duyên
khởi và chơn như duyên khởi. A lại da duyên khởi là khởi theo vô minh vọng
thức. Con đường này ta đóng kín, vì nó sẽ dẫn vào sanh tử, chịu hết khổ này đến
khổ khác. Trong A lại da của chúng ta chất chứa vô số tội lỗi từ vô thỉ kiếp
cho đến hiện đời. Vì vậy, nếu đem nói phải trái thì nói hết đời cũng không hết
việc. Một số người vô chùa thường nói rằng: “ Tôi biết hết các Thầy, biết hết
các Phật tử”; nhưng biết đó là vọng thức vì lúc nào họ cũng phiền não.
Phải đóng kín con đường A lại da
duyên khởi, để mở con đường Niết bàn là chơn như duyên khởi. Đóng kín con đường
A lại da duyên khởi, hay đóng kín cửa trần thế bằng cách bế quan, tức không
nghe, không nhìn, không suy nghĩ. Mở cánh cửa thứ hai là con đường Niết bàn,
tức tâm bình ổn và từ tâm an ổn này mà thọ trì, đọc tụng kinh Đại thừa để tìm
áo nghĩa của Đại thừa mà sống và lạy Phật để kết duyên. Tụng kinh để hiểu lý
kinh, rồi theo lý này vào tận nguồn tâm thanh tịnh nhất là tâm chơn như khởi
lên thì thấy Phật, Bồ tát, Thánh Tăng.
Trên bước đường tu, nếu giữ được
tâm chơn như, ta nhìn cuộc đời, thấy tất cả người tu là Thánh Tăng, tất cả cư
sĩ là Bồ tát, không thấy chúng sinh đáng ghét. Đối với người cho chúng ta chén
cơm, quả chuối, ta nghĩ họ là Bồ tát, thì họ sẽ là Bồ tát. Kinh Pháp Hoa gọi ý
đó là Thọ Bồ tát ký.
Khi từ Nhật Bản trở về Việt Nam,
tâm tôi trong sạch, nên nhìn ai cũng thấy tốt, thấy người xấu cũng tốt, nên họ
đem thức ăn cúng dường tôi. Một Thầy ở phòng bên cạnh nói rằng coi chừng bà đó
dữ lắm. Nghĩ người xấu thì làm sao họ tốt với mình được. Nếu họ chưa tốt là vì
túc nghiệp của mình. Hiểu như vậy, nên nỗ lực tu, lần lần họ cũng trở thành tốt
với ta.
Chơn như duyên khởi là trì Như Lai
tạng. Từ tâm chơn như khởi thấy tất cả chúng sinh có tánh Phật, sẽ thành Phật
trong tương lai. Vì vậy, ta ươm mầm Phật pháp cho họ, nuôi lớn hột giống Bồ đề
này, thì lần lần họ có tín tâm với Tam bảo và cũng sẽ trở thành Phật tử tốt,
hoặc thành người xuất gia.
Nguồn: GHPGVN