GN - Mỗi năm tôi tới thăm trường hạ này và trao đổi
kinh nghiệm an cư. Tuy nhiên, năm nay tuổi tôi đã lớn, sức khỏe không cho phép,
nhưng ba tịnh xá của hệ phái Khất sĩ tổ chức an cư và tập trung về đây nghe
pháp, nên tôi nhận lời đến thăm và chia sẻ kinh nghiệm tu hành với quý Tăng Ni.
Chúng ta bắt đầu tu từ con
người và phát huy phước đức để trở thành chư Thiên. Từ vị trí chư Thiên, chúng
ta xả tục xuất gia làm Sa-môn, từ Sa-môn tiến lên bậc trí giả là Duyên giác và
tiến lên kế cận Phật là Bồ-tát. Đó là con đường xuyên suốt qua năm chặng đường
tu từ người lên chư Thiên, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Tuy nhiên, ta phải
xác định được vị trí của mình mới tu lên được. Thực tế cho thấy có người tu,
nhưng không tiến bộ hay bị sụp đổ, vì không thấy chỗ đứng của mình, nhận lầm chỗ
đứng của người khác, mặc áo Sa-môn nhưng thực chất không phải là Sa-môn. Đầu
tiên mới thọ giới, đắp y, ta mới có tướng Sa-môn và từ đó chúng ta cần khắc phục,
trau dồi cho thành hạnh Sa-môn, vì không có hạnh Sa-môn, việc tu hành phải bị
gãy đổ.
Vì vậy, phát tâm xuất gia, học
đạo, thọ giới Sa-di cho đến Cụ túc, Hòa thượng thường nhắc nhở chúng ta phải tu
cho thành hạnh Sa-môn. Còn Phật khuyên ban đầu phải tu chứng quả vị La-hán.
Nhưng phần lớn chúng ta không làm tròn hạnh Sa-môn, không đắc Thánh quả, lại
nóng vội đi giáo hóa chúng sanh, làm chúng sanh phiền não và bị chúng sanh giáo
hóa ngược lại, nên đọa. Quý vị cần suy nghĩ ý này.
Tôi kính trọng Tổ Minh Đăng
Quang, gần như một đời ngài dành thì giờ cho việc tu học nhiều hơn, còn giáo
hóa ít, nhưng ngài chỉ giáo hóa người có duyên; đó là điều quan trọng theo Phật
dạy. Thật vậy, Phật dạy đắc La-hán rồi mới giáo hóa chúng sanh. Kinh Nguyên thủy ghi rằng tại Lộc Uyển,
Phật giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như trước và Ngài bảo năm anh em Kiều Trần
Như ở nhà chuyên tu
Tu gì? Phật bảo diệt sạch
phiền não, lắng lòng thanh tịnh là bước một nhập Không môn, tức việc đời loại
khỏi tai và khỏi tâm chúng ta để không vướng bận việc đời. Nhưng nhiều khi
chúng ta phạm sai lầm, mặc áo Phật ở chùa, lại bàn việc đời là làm sai lời Phật
dạy; đem việc đời vào lòng nên một thời gian lòng chúng ta toàn phiền não nghiệp
chướng trần lao. Thậm chí Phật không cho khất thực, vì Phật dạy không phải vì
ăn mà khất thực. Vì đói mà xin ăn là ăn mày thực sự, không phải Sa-môn. Phật
nói nếu các thầy đói thì ngồi đó tu, Như Lai đi xin chia cho năm thầy Tỳ-kheo
cùng ăn. Phật dạy rằng có ít ăn ít. Điều này chúng ta học theo gọi là tri túc,
ăn ít ngủ ít, tiêu xài ít tốn kém để chúng ta được giải thoát.
Đức Phật khất thực được bao
nhiêu thì chia cho năm thầy cùng ăn. Ăn ít, trí tuệ phát sanh; hai điều này tỷ
lệ nghịch với nhau. Theo kinh nghiệm tôi, ăn nhiều ngủ nhiều, nhưng ăn ít tự
nhiên ngủ ít; lấy pháp làm thức ăn, lấy thiền thay cho ngủ. Ta thấy bạn đồng tu
nào ăn pháp nhiều hơn thức ăn là đắc đạo, vì trí tuệ sanh ra. Thời kỳ tôi còn
là học Tăng ham học đến quên ăn, nên hiểu được ý nghĩa ăn pháp. Phật dạy có hai
thức ăn chính của người tu là thiền duyệt thực và pháp hỷ thực. Nguồn sống của
chúng ta chỉ là Thiền và pháp. Vì vậy, Tỳ-kheo nào ăn nhiều ngủ nhiều không thể
tiến tu đạo nghiệp.
Phật không cho khất thực vì
chưa thành hạnh Tỳ-kheo. Tu cho thành hạnh Tỳ-kheo, hay đắc La-hán, tức làm sao
đạt được Bát Chánh đạo là chánh kiến, chánh tư duy, chánh niệm, chánh định,
chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh tinh tấn. Lúc nào ta cũng đặt mục
tiêu này đạt cho được. Trước nhất là chánh kiến, tức cái thấy của chúng ta có
chính xác hay không. Thấy không chính xác, thấy ma tưởng Phật, thấy xấu tưởng tốt
sẽ bị mắc lầm, rất nguy hiểm.
Truyện Tây du ký cũng gợi
ý này. Ngài Huyền Trang quyết chí tu hành, nhưng đôi khi nhận lầm ma, nhận trái
là phải. Vì vậy, quý vị nên luôn luôn lắng lòng thanh tịnh để nhìn đời qua lăng
kính Phật pháp, thấy theo cách thấy của Phật, không thấy theo thế gian. Trung
Hoa có câu châm ngôn rằng bắt đầu tu thấy núi không phải là núi, thấy sông
không phải là sông. Nghĩa là người tu nhìn đời tất cả đều hoàn không, cuộc đời
này không có gì hấp dẫn. Người đời thấy đẹp nên ham mới chạy theo là lao vào
sanh tử. Tổ diễn tả ý này là “Trục sắc thanh nhi tham nhiễm, thập triền thập sử
tích thành hữu lậu chi nhơn, lục căn lục trần vọng tác vô biên chi tội, mê luân
khổ hải thâm nịch tà đồ…”. Chúng ta chết là buông tất cả. Mạng sống của chúng
ta bị giới hạn trong hơi thở, thở ra mà không hít hơi thở vào được là chấm dứt
cuộc sống. Ý thức mạng sống mong manh như vậy, chúng ta cố gắng đạt Thánh quả
trước khi chết.
Nhập Không môn, lắng lòng
thanh tịnh để lòng trống không, không còn gì khởi lên từ vô minh, vì biết rằng
tất cả khởi niệm từ ham muốn, si mê sẽ dẫn chúng ta vào con đường tội lỗi. Có
hai nguồn khởi lên, một là từ tâm thanh tịnh khởi lên, đó là chơn như duyên khởi;
hai là từ A-lại-da thức khởi lên gọi là A-lại-da duyên khởi. Bắt đầu tu, hàng
ngày chúng ta phải cắt vọng duyên là cắt những điều khởi lên từ A-lại-da thức để
thâm nhập pháp Không. Phải thể nghiệm như vậy, không phải tu pháp Không là
Không suông, bị mất gốc. Cái gì khởi lên thì ta cắt ngay. Tôi kinh nghiệm pháp
này. Khi ngồi yên, ta thường nhớ điều này điều nọ, nhớ việc của kiếp này là nhớ
lại từ thuở nhỏ cho đến lúc đi tu xảy ra những gì và bạn bè đối xử với mình như
thế nào, v.v…, những khởi niệm như vậy là từ A-lại-da duyên khởi bùng lên thuộc
về vọng nghiệp, đưa chúng ta vào sanh tử.
Nhận thức rõ lý này, chúng
ta cắt bỏ vọng nghiệp cho đến khi tâm thanh tịnh được Trí Giả đại sư ví như cái
áo phải giặt sạch mới nhuộm màu đạo được. Tâm thanh tịnh mới thấy Phật và nghe
pháp được. Tâm không thanh tịnh chỉ nghe ngôn ngữ, không nghe được pháp. Pháp
là gì? Pháp là chân thật, hay vô tự chân kinh, không bằng ngôn ngữ gọi là ngôn
ngữ đạo đoạn. Chỉ còn tâm hướng về Phật, nên Phật gia bị, tâm sáng lên, đó là
pháp.
Hòa thượng Trí Tịnh không ra
khỏi thiền thất, vì ở trong thiền thất để giữ tâm thanh tịnh mới an. Tôi đi hoằng
pháp, Hòa thượng cũng nhắc nhở tôi an trú trong tâm thanh tịnh, để tâm chạy ra
ngoài sẽ bị bất an. Hòa thượng làm Chủ tịch ba mươi năm nhưng ngài không đi vì
e ngại nghiệp khởi. Trong tiềm thức của mỗi chúng ta đều có hạt giống xấu và nó
sẽ dễ dàng khởi lên rất nhanh. Hòa thượng dạy rằng khi nào suy nghĩ để giải quyết
việc thì may lắm là đúng được một nửa. Nhưng nếu không suy nghĩ, mà từ tâm chơn
như thanh tịnh khởi lên thì đáp án chính xác đến 70%, bấy giờ nếu đối tượng là
ma thì ta biết là ma, Phật thì ta biết là Phật, không bị mắc lừa. Còn nghe âm
thanh, thấy hình dáng bên ngoài sẽ có vô số tội lỗi đi kèm, khiến ta mê lầm.
Từ tâm thanh tịnh hành đạo mới
không bị gạt. Vì vậy, Phật khuyên người đắc La-hán mới có thể giáo hóa chúng
sanh, chưa đắc Thánh quả mà giáo hóa chúng sanh là mắc nạn. Bồ-tát thị hiện làm
Thanh văn thì không đắc đạo mà giáo hóa được chúng sanh, nhưng cũng phải nhớ rằng
chỉ giáo hóa được chúng sanh hữu duyên thôi. Ngay như Phật còn chỉ giáo hóa người
có duyên với Ngài. Trong thiền định hay từ tâm chơn như, Phật thấy người có
duyên, Ngài đến giáo hóa họ. Phật giáo hóa không bỏ ai, kể cả người hốt phân là
Sunita; nhưng Phật chỉ giáo hóa được một ông Sunita hốt phân, còn các người hốt
phân khác, Ngài không giáo hóa được.
Các vị chân tu trong quá khứ
đã đắc đạo, nhưng vì phạm sai lầm nên phải trả quả báo của đời trước. Sunita đời
trước đã đắc La-hán, nhưng phạm sai lầm, nên đời này phải gánh phân. Vì vậy, Đức
Phật đến lột bỏ cái nghiệp này xuống thì ông Thánh bên trong Sunita hiện ra. Điều
này đơn giản, nhưng phải cân nhắc, nhiều khi vì “ngu đột xuất” nên phải trả giá
cho cái sai lầm của mình. Sunita tu hạnh Thanh văn làm Sa-môn, làm thầy thì các
vị Bồ-tát hiện thân lại cuộc đời để trợ hóa. Họ đóng vai làm vua, làm tướng,
làm trưởng giả để trợ hóa ông, nhưng ông không biết. Nhận thức sâu sắc điều
này, Hòa thượng Trí Tịnh nói rằng ngài không dám dự trai tăng, vì e sợ có nhiều
vị quỳ lạy là Bồ-tát phát tâm trợ hóa. Đạo lực của các ngài cao hơn đạo lực của
ta, nhưng các ngài thị hiện lại đóng vai cư sĩ là vua chúa, trưởng giả…
Hòa thượng Trí Thủ lúc sanh
tiền có kể rằng cụ Lê Đình Thám dạy các Hòa thượng, nhưng lại đảnh lễ chư Tăng
trước rồi mới dạy, vì nghĩ rằng hình thức Tăng-già rất quan trọng để giúp cho
Phật pháp tồn tại lâu dài, nên cụ kính ngưỡng Tăng. Vì vậy, Hòa thượng Trí Thủ
coi ông Lê Đình Thám là Bồ-tát hiện thân lại giúp chư Tăng phát triển trí tuệ.
Thật vậy, nhờ ông này mà phong trào học Phật pháp của chư Tăng được phát triển
cho đến thành lập trường học dạy chư Tăng. Các bậc tu hành có trí tuệ thấy được
các vị Bồ-tát trợ hóa, nhưng ta chưa đắc La-hán, nên ta không thấy. Riêng tôi
chưa đắc La-hán cũng chưa thấy được các Bồ-tát hiện thân lại để trợ hóa người
tu, nhưng bằng niềm tin, tôi coi những người trợ hóa giúp tôi là những người đồng
hạnh nguyện với tôi trên lộ trình Bồ-tát đạo, nên tôi quý trọng họ.
Hòa thượng Giác Chánh không
đi hoằng hóa. Ngài nói không thể hoằng pháp được vì chưa có quốc vương, vương tử,
tể quan cư sĩ hiện thân ủng hộ thì không thể làm được. Thật vậy, ta muốn làm gì
cũng phải có người ủng hộ. Thí dụ các sư muốn lên Đắk Lắk cất chùa phải coi ông
Bí thư tỉnh ủy, hay ông Chủ tịch huyện, tỉnh, hoặc ông Giám đốc công an có ủng
hộ ta hay không. Tôi đi giảng pháp thường lắng lòng thanh tịnh để quan sát các
nhà lãnh đạo làm gì. Nếu họ không tin Phật, họ là người ngoại đạo thì tôi không
đi đến đó; vì chỗ không có người ủng hộ ta thì sẽ gặp nguy hiểm, hoặc có người
chống phá mà ta đến là đút đầu vào cái chết.
Lịch sử cho thấy Mục Kiền
Liên thần thông bậc nhất, nhưng chỉ chút sai lầm mà bị nhóm ngoại đạo lõa thể
đánh chết. Ngài có thần thông làm vua, trưởng giả phát tâm, nhưng không độ được
bà bán bánh ướt, vì ngài vận thần thông cho đá bay làm hư rổ bánh của bà.
Chúng ta lắng lòng thanh tịnh
có cái nhìn chính xác thấy được đối tác của ta ở đâu, họ là ai, họ cần chúng ta
điều gì thì theo đó mà giáo hóa. Theo ngài Nhật Liên, thấy chính xác bốn điều
là giáo, cơ, thời, quốc. Giáo lý có vô số phương tiện và Đức Phật đã dùng vô số
phương tiện để giáo hóa chúng sanh làm lợi ích cho người. Nếu nói giáo lý mà
người nghe không thực hành theo được, không được lợi ích thì chỉ là danh tự
Pháp sư nói nhiều nhưng không ai giải thoát. Kinh Bát-nhã đưa ra
sáu pháp ba-la-mật, nhưng kinh Hoa nghiêm nói thêm có mười pháp ba-la-mật, trong đó có phương tiện
ba-la-mật. Nói đến phương tiện ba-la-mật thì phải nói đến Tha Hóa Tự Tại Thiên.
Vị Trời này mới có được phương tiện ba-la-mật, nên đến đâu cũng tự tại, vì ông
biết người nghĩ gì, muốn gì, làm được gì, thì ông nói điều họ muốn, họ nghĩ mới
dạy được họ.
Ngoài phương tiện huệ, còn
có chân thật trí. Chân thật trí nghĩa là thấy chính xác, không sai lầm, hay đó
là cái thấy của Phật hoàn toàn đúng như thật khi Ngài đắc đạo, nhưng nếu nói ra
chân lý ấy thì chúng sanh không thể tiếp thu được, không chấp nhận được, họ sẽ
bị đọa. Vì vậy, Phật định nhập Niết-bàn khi cái hiểu, cái thấy của Ngài không
truyền trao cho ai được. Cũng vậy, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đi khắp Ấn Độ tìm người tri
kỷ để truyền pháp, nhưng không có. Ngài phải sang Trung Quốc và ngồi chín năm lặng
thinh, may mắn có Huệ Khả tới cầu pháp thì Tổ Đạt Ma mới Niết-bàn.
Tìm
người tri kỷ để chia sẻ rất khó. Sở đắc của các bậc Thánh không chia cho chúng
ta được, nhưng Phật thương xót chúng sanh, Ngài bày ra phương tiện nghĩa là
những cái mà chúng ta làm được, đó là cạo đầu đi tu, ăn chay, còn làm Phật, làm
Tổ thì không cách nào chỉ chúng ta được. Vì sự khó khăn đó, cho nên phải thành
tựu quả La-hán, tức có đầy đủ Bát chánh đạo thì việc giáo hóa chúng sanh chắc
chắn dễ dàng, hoặc người thành tựu hạnh Sa-môn, người trông thấy sanh tâm kính
trọng, nên việc cảm hóa họ cũng nhẹ nhàng. Có bốn tướng là đi đứng nằm ngồi
theo kiểu Sa-môn. Ngài Trí Giả thêm vào hai tướng nữa là ăn và thuyết pháp.
Thuyết
pháp cũng là hạnh Sa-môn. Nhiều thầy thuyết pháp quên hạnh Sa-môn, nên cũng
cười giỡn là sai. Có hạnh Sa-môn khi thuyết pháp thì người nhìn thấy ta là Pháp
sư, không phải là ông hề. Thuở còn trẻ, tôi thấy có thầy thuyết pháp vừa ca
giỡn, nói tiếu lâm, người ta vỗ tay. Nhưng sau nghiên cứu Thiên Thai tông, tôi
thấy thuyết pháp như vậy là mất hạnh Sa-môn, lúc đó trở thành người hề, làm cư
sĩ đem vui cho người. Ngài Trí Giả dạy rằng người thuyết pháp không cho cái vui
đó. Ngài thuyết pháp suốt ba tháng an cư chỉ nói ý nghĩa thâm diệu của chữ Diệu
để giúp cho người nghe thâm nhập huệ Như Lai không thấy chán. Nói vui theo thế
tục là kéo họ về thế tục.
Ăn theo
hạnh Sa-môn thì hành giả của phái Khất sĩ cũng giữ hạnh này. Hạnh Sa-môn là
việc thọ thực, kinh hành, ngồi thiền hay thuyết pháp đều làm cho người phát
tâm. Tôi thấy các thiền sư ngồi an nhiên thanh thoát cũng phát tâm. Ngày xưa
quy định sau khi thọ giới ít nhất năm năm phải hiện sáu tướng giải thoát của
Sa-môn. Bổn sư thấy đệ tử tròn hạnh Sa-môn như vậy mới cho đi vân thủy ba năm.
Vân là mây, thủy là nước. Mây cũng là nước, nước cũng là mây. Trong suốt ba năm
đi vân thủy mà không ai ngăn cản được ta và ta cũng không gây trở ngại việc của
người, đó là đi kiểu mây bay ngang núi, nhưng núi không cản được mây và mây
cũng không làm hư núi. Đi theo hạnh Tỳ-kheo như vậy thì không làm trở ngại cuộc
đời.
Thủy là
nước có khả năng len vào lòng đất. Tỳ-kheo đi khất thực thanh tịnh, người thấy
thì họ hướng thiện, tu hành được giải thoát. Thuở nhỏ tôi đi khất thực. Thầy
dạy muốn ăn chuối thì đến hàng chuối, muốn ăn xôi thì đến hàng xôi, đứng đó,
đừng nói gì, chứ không dạy hạnh Tỳ-kheo.
Sau khi
thọ giới năm năm sống với thầy, học cho được hạnh Tỳ-kheo và sau ba năm đi vân
thủy để tập sự thể nghiệm hạnh Tỳ-kheo trong cuộc đời rồi trở về gặp thầy. Bấy
giờ thầy ấn chứng cho đệ tử có đủ tư cách cất tịnh xá. Chưa thành hạnh Tỳ-kheo
mà nóng vội cất chùa, độ người, e rằng sẽ bị người độ lại.
Tôi mong rằng quý vị
suy nghĩ lời Phật dạy về hạnh Sa-môn để đạt được phước đức trí tuệ, đóng góp
được lợi ích cho đạo pháp.
HT Thích Trí Quảng